Văn hóa Kitô giáo

Nguyện đường của Exeter College, Viện Đại học Oxford.
Kitô giáo đóng vai trò nổi bật trong việc định hình nền văn minh phương Tây.[36][37][38]

Văn hóa phương Tây trải qua lịch sử đã hầu như tương đương với văn hóa Kitô giáo. Các ý niệm về "châu Âu" và "Thế giới phương Tây" được liên hệ mật thiết với "Kitô giáo và Thế giới Kitô giáo", nhiều người thậm chí còn coi Kitô giáo là mối liên kết tạo nên một căn tính Âu châu thống nhất.[39] Mặc dù văn hóa phương Tây trong thời kỳ đầu bao gồm một số tôn giáo đa thần dưới các đế quốc Hy LạpLa Mã nhưng khi chính quyền trung ương La Mã suy yếu, vị thế của Giáo hội Công giáo là định chế kiên vững duy nhất tại châu Âu.[40] Trong tình trạng bất ổn khi đế quốc dần suy tàn, các tu viện xuất hiện kịp thời đã bảo tồn ngôn ngữ viết và một phần truyền thống cổ điển.[41] Cho tới Thời kỳ Khai minh,[42] văn hóa Kitô giáo đã dẫn dắt triết học, văn học, nghệ thuật, âm nhạckhoa học.[40][43] Cách riêng, Kitô giáo sau này đã phát triển các chuyên ngành tương ứng của mình.

Kitô giáo có một ảnh hưởng quan trọng lên giáo dục, khoa học và y học khi mà giáo hội đã tạo dựng nên các nền tảng của hệ thống giáo dục phương Tây,[44] cùng với đó Kitô giáo là nhà bảo trợ cho việc hình thành các đại học trong thế giới phương Tây khi mà viện đại học thường được xem là một thể chế có nguồn gốc Kitô giáo thời Trung cổ.[45][46] Xuyên suốt dòng lịch sử, nhiều giáo sĩ, đặc biệt là các tu sĩ Dòng Tên,[47][48][49] hoạt động trong lĩnh vực khoa học và có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của khoa học.[50][51] Ảnh hưởng của Kitô giáo lên nền văn minh có thể kể đến phúc lợi xã hội,[52] thành lập các bệnh viện,[53] kinh tế (như đạo đức lao động Tin Lành),[54][55] chính trị,[56] kiến trúc,[57] văn học[58] và đời sống gia đình.[59]

Các Kitô hữu Đông phương, nhất là tín hữu Cảnh giáo, đã đóng góp cho nền văn minh Hồi giáo Ả Rập dưới các triều đại Nhà UmmayadNhà Abbas với việc dịch tác phẩm của các triết gia Hy Lạp cổ đại sang tiếng Syriac và sau đó là tiếng Ả Rập.[60][61][62] Họ cũng là những nhân vật ưu tú trong triết học, khoa học, thần họcy học.[63][64]

Các Kitô hữu có rất nhiều đóng góp trong phạm vi rộng lớn và đa dạng các lĩnh vực, gồm khoa học, nghệ thuật, chính trị, văn học và kinh doanh.[65] Theo 100 Years of Nobel Prizes, xem xét các giải Nobel được trao trong giai đoạn từ 1901 tới 2000 cho thấy rằng có 65,4% Khôi nguyên Nobel xác định tôn giáo của mình là Kitô giáo thuộc các hệ phái.[66]

Hậu Kitô giáo là thuật ngữ dùng để chỉ sự suy giảm của Kitô giáo trong thế kỷ 20 và 21, đặc biệt là tại châu Âu, Canada, Úc và ở mức độ ít hơn tại các nước Viễn Nam của châu Mỹ, có liên quan tới thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại. Nó đề cập đến việc Kitô giáo mất vị trí độc tôn trong các giá trị và thế giới quan so với các xã hội Kitô giáo trước đây.

Các Kitô hữu văn hóa là những người thế tục có di sản Kitô giáo, có thể không tin theo các giáo lý nhưng còn duy trì thiện cảm với văn hóa đại chúng, nghệ thuậtâm nhạc Kitô giáo nên vẫn còn mối liên hệ. Thuật ngữ này còn dùng trong việc phân biệt các nhóm chính trị trong khu vực đa tôn giáo.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kitô giáo http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F042730.php http://ancienthistory.about.com/od/monotheisticrel... http://www.adherents.com/Na/Na_173.html http://www.adherents.com/Religions_By_Adherents.ht... http://www.adherents.com/adh_influ.html http://www.adherents.com/adh_phil.html http://www.adherents.com/people/100_Nobel.html http://www.adherents.com/people/100_business.html http://www.adherents.com/people/100_scientists.htm... http://www.adherents.com/people/adh_art.html